Thursday, June 12, 2014

Phân Ưu NT Phan Trọng Sinh / Hội Nha Kỹ Thuật



Nén Hương Vĩnh Biệt


Anh đi… đi mãi không về - In Loving Memory Phan Trong Sinh.


Ngày 14/6/2014 - nhằm ngày 17 tháng 5, năm Giáp Ngọ - Gia đình thân quyến cùng một số (quân nhân) chiến hữu các cấp thuộc một số đơn vị, binh chủng, có mặt tại nhà quàn East Lawn Elk Grove Memorial Park and Mortuary, vùng Elk Grove Sacramento. Lễ cầu siêu và tiển đưa lần cuối: Trung tá NKT Phan trọng Sinh.


Anh (Phan Trọng Sinh) “ra đi” ngày 8/6/2014, một lần đi vĩnh biệt, nơi vùng đất tạm dung Sacramento - thủ phủ Tiểu bang California -  Hoa Kỳ. Cuộc đời trải qua 81 năm tuổi đời, tròn 60 năm (quân ngũ), nếu tính những tháng năm vẫn còn bộ quân phục theo người, dẫu là nước mất, nhà tan (8/6/1954 – 8/6/2014). Và 52 năm mặn nồng gia đình chung sống.


Định mệnh chăng? Ngày niên trưởng Phan trọng Sinh nhập ngũ QĐ: 8/6/1954 – khi vừa đúng 20 – Anh sinh: 25/12/1934, và rồi ngày “ra đi vĩnh viễn” lại là 8/6/2014. Con số “4” (định mệnh?) đã theo anh suốt cuộc đời.


Trãi qua những đơn vị binh chủng lừng lẫy tiếng tăm: Pháo binh, Nhãy dù, Biệt Kích, Lôi Hổ/SLL, và… NKT/BTTM. Nước mất, đơn vị rã ngũ, tan hàng, nhưng người quân nhân QLVNCH không bao giờ mất, Phan trọng Sinh vẫn hiên ngang hãnh diện với quân phục hoa dù, mũ đỏ dõng dạt nhận bằng mản khóa Chỉ huy tham mưu (6/6/1975) tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Và rồi từ đó vẫn âm thầm sinh hoạt cùng anh em chiến hữu suốt mấy mươi năm sau.


Đối với NKT, không ai có thể xa lạ gì với NT Phan trọng Sinh - một chiến hữu, một đồng đội, và cũng là một đàn anh khả kính. Anh thường truyền đạt, kể lại bao điều, bao chuyện mà đơn vị từ Lôi Hổ (SLL) đến NKT đã trải qua, đã sinh hoạt, hoạt động. Một bộ óc hiếm quí của đơn vị, để sau này, đồng đội, chiến hữu, hậu duệ muốn biết về NKT - một đơn vị tiếng tăm, lừng lẫy – nhưng từ bấy lâu vẫn là trong âm thầm và bóng tối.

Trung tá Phan trọng Sinh, một chiến hữu đàn anh (đối với chúng tôi), một niên trưởng khả kính, chẳng những khối óc, tài năng, mà cả đức độ… để hôm nay, viết mấy dòng này bằng tấm lòng quí mến, trân trọng, tiếc thương.


Có tham dự trong buổi lễ cầu siêu, an táng, mới thấy được những cái “tình”: tình chiến hữu, tình đồng đội, đồng song (cùng khóa VBĐL), và tình thân thuộc, thân quyến gia đình… Tình yêu quê hương đất nước thì lớn lao to tát, người viết tự nghĩ là chưa đủ sức, chưa dám lạm bàn.


Hội trường (tổ chức nghi lễ) có khoảng 200 người - một phần ba là gia đình, thân quyến, thân thuộc. Còn lại (khoảng 2/3) là các chiến hữu, đồng đội. Hiện diện ngoài đoàn thể anh em đại diện của NKT (Sacramento, Bắc Cali và Nam Cali tề tựu. Anh em chiến hữu VBĐL các khóa (cũng chỉ là đại diện cho từng khóa một với số ít - một vài người). Có đến 11 khóa VBĐL (từ khóa 10 đến 30 có mặt trong lễ tiển đưa. Các khóa: 10-11-13-18-20-21-24-25-27-29 và 30. Các đơn vị khác là: BB (một số các SĐ), Nhãy dù, TQLC, BĐQ, TG, PB, ĐPQ… Có thể còn nữa, người viết xin lỗi nếu có thiếu sót.



Toán Phủ Quốc Kỳ VNCH (Little Sài gòn Quận Cam, California)
 
Tiển biệt Anh:

Chủ trì trong buổi lễ, NKT (với một số anh em đại diện). Thực hiện lễ phủ cờ (VNCH) do chiến hữu Lâm ngọc Chiêu hướng dẫn điều khiển: trang trọng, trang nghiêm, ấm cúng, thắm tình… đã tạo một sự nỗi bậc với hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ tung lên hạ xuống ba lần, và sau đó là phủ trùm lên áo quan – thiêng liêng và cảm động - Những ánh chớp lóe sáng liên tục, và cũng những gương mặt thầm lặng nhớ thương, nhớ tiếc, những giọt nước mắt ngậm ngùi.

 Toán Phủ Quốc Kỳ Cố Trung Tá Phan Trọng Sinh
LH Lâm Ngọc Chiêu, NKT Lê Quang Hiền, HL Lương Văn Lập, NKT Nguyễn Thành Điểu, HL Lê Tinh Anh, HL Nguyễn Đức Nhữ (San Jose)
LH Đoàn Mạnh 
Hình ảnh những anh em chiến hữu NKT luân phiên nhau từng đôi đứng gác hầu cạnh quan tài. Từng khắc một, chuyển đổi (đổi phiên) trịnh trọng, trang nghiêm theo lễ nghi quân cách gợi nhớ lại ngày xưa… Anh em chiến hữu ta ơi! Quân nhân QLVNCH không bao giờ mờ phai, mất đi, mai một…


Đại diện cho NKT ngõ lời trong buổi lễ là CH Nguyễn đức Nhữ (hội trưởng NKT/Bắc Ca và cũng là THP/TH/NKT với đôi dòng điếu văn tiếc thương, vinh danh một chiến hữu NT và chia buồn cùng tang quyến. Có hiện diện của NT Lê Minh. Anh Minh ngồi chung cùng gia đình tang quyến để cùng chia xẻ, nhớ thương, nhớ tiếc, đau buồn.


Đại diện LH cựu quân nhân Sacramento (CH Đại minh Mẫn), cũng chỉ ít lời nhưng không kém cảm động, xúc động: “ Bây giờ, trong giây phút này đây, anh em chiến hữu, đồng đội đến viếng và tiển đưa anh. NT nằm đây, bằng hình hài thân xác, nhưng thật thì NT đã ra đi… đi thật xa… mang theo tinh non nước, tình chiến hữu, đồng đội, bạn bè thân thuộc, tình gia quyến, gia đình với bao nỗi tiếc nhớ, tiếc thương. Đi… đi về nơi miên viễn, về nơi chốn vĩnh hằng. Cầu mong vong linh an nhàn, an lạc…” Chỉ có hơn 5 phút ngắn ngủi, anh đã gây cho bao giọt lệ tuông rơi.


Đại diện Võ Bị Đà Lạt, cũng ngắn gọn mà xúc tích, mà chứa chang. Anh xướng danh từng người có mặt (anh em các khóa VBĐL). Ai có, đứng lên. Một phía hội trường đứng lên với khoảng vài chục mái đầu đã bạc với huy hiệu VBĐL trên từng chiếc mũ đen. Những hình ảnh thật sự là thấm đậm gắn bó cho tình đồng đội, đồng song, đồng một tấm lòng. Đơn giản, đơn sơ thôi, trong phạm vi, trong hoàn cảnh… Tinh thần VBĐL quả là thiêng liêng, gắn bó, thắm thiết, đáng trân trọng.

Đứa con trai – con trưởng – đôi lời cảm tưởng, cảm tạ mọi người. Và cũng xin dành đôi phút nhắc lại vài kỷ niệm trong tình cha con - những lần cùng cha đi câu cá -  Rất là cảm động. Hôm nay, cận ngày Father Day’s, tiển biệt cha, đứa con trưởng đã kể về cha, gây xúc động, ngậm ngùi…



 Trước giờ hạ huyệt 

Rồi thì… cũng cùng nhau tiển biệt, tiển đưa lần cuối. Đoàn người di chuyển từ nhà quàn East Lawn Elk Grove Memorial Park and Mortuary đến nghĩa trang Hilltop Cemetery, và để lại huyệt mộ NT một đóa hoa ngầm nói lời vĩnh biệt. Một nén hương tỏa khói, nguyện cầu hương linh Anh tỏa sáng, phiêu diêu an bình, an lạc về miền miên viễn, về cõi vĩnh hằng.


Chiến hữu, đồng đội, bạn bè, gia đình quyến thuộc, bao nỗi bùi ngùi, xúc động, tiếc thương…


SJ.18/6/2014 - Nguyễn Dẩn.

Tuesday, June 10, 2014

Cáo Phó

Đệ Ngủ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương

Cáo Phó
Gia đình chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin buồn cng quý thân bằng quyến thuộc, Cô, Chú, Bác, và bạn hữu gần xa

Anh, Em, Chồng, Cha, Ông của chúng tôi là:


Ông Phan Trọng Sinh
Pháp danh: Thiện Minh Đức
Cựu sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (Khóa 11)
Cựu Trung tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

Sinh ngày 25 tháng 12 năm 1934 tại Bắc Ninh, Việt Nam
Đã từ trần lúc 8 giờ 45 phút sáng ngày 8 tháng 6 năm 2014
Tại thành phố Elk Grove, California, Hoa Kỳ

Hưởng thọ 81 tuổi.

Linh cữu được quàn tại East Lawn Elk Grove Memorial Park and Mortuary
9189 East Stockton Blvd., Elk Grove, CA 95624

CHƯƠNG TRÌNH THĂM VIẾNG

·         Thứ Sáu: 13 tháng 6 năm 2014 vào lúc 4:00 P.M. đến 8:00 P.M.
·         Thứ Bảy: 14 tháng 6 năm 2014 vào lúc 9:00 A. M. đến 10:00 A.M.
·         Lễ di quan vào lúc 10:00 A.M sáng thứ Bảy 14 tháng 6, năm 2014. Đến Nghĩa trang Hilltop: Waterman Road, Elk Grove CA 95624

TANG GIA ĐỒNG KÍNH BÁO

Chị dâu: Bà quả phụ Phan Trọng Hoan và gia đình, California
Anh: Phan Trọng Thiện và gia đình, Connecticut
Anh: Phan Trọng Chinh và gia đình, Virginia
Chị: Phan Thị Hiên và các con, Connecticut
Chi: Phan Thị Minh và gia đình, Việt Nam
Em: Phan Trọng Vĩnh và gia đình, Connecticut
Em: Phan Thị Phụng, Connecticut
Vợ: Đỗ Thị Kim Hoàng, Elk Grove, California
Trưởng nam: Phan Trọng Quốc Bảo, vợ và con Elk Grove, CA
Thứ nam: Phan Trọng Quốc Khánh, vợ và con Arlington, TX
Thứ nữ: Phan Thị Ngọc Quyên, chồng và các con, Arlington, TX
Thứ nam: Phan Trọng Quốc Việt, vợ và các con, Plano, TX
Thứ nữ: Phan Thị Kim Uyên, chồng và các con, Springfield, MO
Cháu Đích Tôn: Phan Trọng Quốc Hưng

CÁO PHÓ NÀY THAY THẾ THIỆP TANG

Xin miễn phúng điếu

 Huy chương:
Đệ Ngủ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
Đệ Ngủ Đẳng Lục Quân Huân Chương
Biệt Công Bội Tinh
23 lần Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, Ngôi Sao Vàng, Ngôi Sao Bạc và Ngôi Sao Đồng.
4 lần Chiến Thương Bội Tinh
Tham Mưu Bội Tinh 
và nhiều huy chương khác.


Nhà Quàn
East Lawn Elk Grove Memorial Park
9189 East Stockton Boulevard
Elk Grove, CA 95624
Phone: 916-732-2031


Get Driving Directions
Enter a starting address below

Use the following format:
Street Address, City, State Zip


Nghĩa Trang (Nghi Lễ An Táng)
Hilltop Cemetery
Waterman Road
between Elk Grove Blvd. & Bond Road
Near Park Lane Subdivision
East Elk Grove, CA 95624




Trung Tá Phan Trọng Sinh


1934-2014
Sinh ngày 25-12-1934
Bắc Ninh, Việt Nam 
Trung Tá Phan Trọng Sinh
Khóa 11 Võ Bị Đà Lạt.
Pháo Binh Sư Đòan Nhảy Dù.
Trưởng Phòng 2 Sở Liên Lạc.
Chủ Sự Phòng Tình Báo (Phòng 2)Bộ Chỉ Huy Nha Kỹ Thuật / Bộ Tổng Tham Mưu / QLVNCH.

Huy chương:
Đệ Ngủ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
Đệ Ngủ Đẳng Lục Quân Huân Chương
Biệt Công Bội Tinh
23 lần Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, Ngôi Sao Vàng, Ngôi Sao Bạc và Ngôi Sao Đồng.
4 lần Chiến Thương Bội Tinh
Tham Mưu Bội Tinh 
và nhiều huy chương khác.
 
Đã ra đi vào lúc 8:53 sáng ngày 8 tháng 6 năm 2014 tại Thủ Phủ Sacramento, Tiểu Bang California Hoa Kỳ
Chương Trình Tang Lễ sẽ thường xuyên cập nhật trên Blog. 

Nhà Quàn
East Lawn Elk Grove Memorial Park
9189 East Stockton Boulevard
Elk Grove, CA 95624
Phone: 916-732-2031


Get Driving Directions
Enter a starting address below

Use the following format:
Street Address, City, State Zip


Nghĩa Trang (Nghi Lễ An Táng)
Hilltop Cemetery
Waterman Road
between Elk Grove Blvd. & Bond Road
Near Park Lane Subdivision
East Elk Grove, CA 95624

Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù VNCH

 

Lời giới thiệu của Phan Ngọc Hà, 21 QYHD:

Chiến trận Đông-dương đã dứt, chiến tranh Việt-nam đã tàn. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà là cột trụ vững chắc cho tiền đồn của Thế Giới Tự Do tuy không hoàn tất được sứ mệnh giao phó (vì lợi ích của bọn con buôn trên bàn cờ chính trị thế giới) nhưng cũng đã viết nên những trang quân sử hào hùng của một quân đội Quốc gia "trưởng thành trong khói lửa."

Một thời oanh liệt các chiến sĩ bảo vệ Tự do, nhất là các đơn vị thiện chiến: Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, ... đã không hổ danh với câu "Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (*).

Bài viết: TĐ 3 Nhẩy Dù QLVNCH, Những Trang Quân sử Đầu Tiên Do Quân y Sĩ Hiện Dịch Hoàng Cơ Lân sưu tầm đã ghi lại những bước chân kiêu hùng của Sư Đoàn Dù nói riêng và QLVNCH nói chung từ buổi thành lập sơ khaị.
TĐ3 ND là nơi xuất thân của danh tướng thanh liêm trong QLVNCH Phan Trọng Chinh mà ai cũng biết qua câu "nhứt Thắng, nhì Thanh, tam Chinh, tứ Trưởng..."

Đặc biệt, TĐ3 ND cũng là đơn vị đầu tiên của một số QYHD hiện là thành viên của Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y như các đàn anh Trần Tấn Phát, Nguyễn Đức Liên, Trần Đức Tường, Trang Châu...

Còn đây một chút tự hào về những bậc đàn anh đi trước.

Trong chương trình "Việt Nam hoá chiến tranh," TĐ10ND Viễn Chinh Pháp (10è BCCP) được giải tán ngày 31-8-1952, để thành lập TĐ3ND kể từ ngày 1 tháng 9 năm 1952.

Những quân nhân Pháp thuộc TĐ10ND Viễn Chinh chưa mãn nhiệm kỳ để hồi hương, sẽ được thuyên chuyển sang phái bộ quân sự cạnh chính phủ Việt Nam (Mission militaire française/Gouv. Việt Nam) để tiếp tục phục vụ với TĐ3ND tân lập. Những quân nhân bản xứ nguyên thuộc TĐ10ND Viễn Chinh, và những lính Việt Nam tân tuyển, cũng sẽ ký khế ước mới với TĐ3ND.

Doanh trại, vũ khí, quân trang quân cụ của TĐ10ND-VC cũng sẽ được trao lại cho đơn vị tân lập.

Tiểu đoàn Trưởng đầu tiên : Thiếu tá Monteil
Y sĩ trưởng TĐ : Y sĩ Trung úy Nguyễn Hoài Đức
Đến đầu năm 1953, TĐ3ND sẵn sàng tác chiến với quân số 1032 chia ra như sau
Sĩ quan Pháp : 16         HSQ Pháp :  58            Binh sĩ Pháp :  67
Sĩ quan V N   :  22        HSQ VN     :  51            Binh sĩ VN    :  818

Sĩ quan Việt Nam mới đầu toàn là Thiếu úy Trung đội Trưởng như Phan Trọng Chinh, Nguyễn Thành Chuẩn, Đỗ Kế Giai, Lý Văn Quảng (**), Nguyễn Văn Thừa, Phạm Công Quân…


Đầu tháng 10/1953, 2 ông Chinh và Chuẩn lên Trung úy.
Đầu năm 1954 trung úy Phan Trọng Chinh nắm Đại đội 1 để vừa vặn đụng trận Ban Hine Siu…Trung úy Chuẩn vẫn còn Trung đội Trưởng của Đại đội 4.

Đại úy Marcel Mollo thay thế Thiếu tá Monteil trong chức vụ TĐT/TĐ3ND kể từ 1 tháng 6, 1953, được lên Thiếu tá tháng 4/1954, ông giữ chức vụ này cho đến khi giao lại đơn vị cho Đại úy Phan Trọng Chinh trong năm 1955(?).

Quân số TĐ3ND hồi tháng 6/1953 như sau:
Sĩ quan Pháp :  15         HSQ Pháp :  50           Binh sĩ Pháp :  34
Sĩ quan VN    :   18        HSQ VN     :  61           Binh sĩ VN    :  808

Trung úy Phan Trọng Chinh, ĐĐT/ĐĐ1 lên Đại úy hồi tháng 5/1954
Trung úy Nguyễn Thành Chuẩn nắm ĐĐ4 kể từ tháng 6/1954.

Quân số TĐ3ND hồi cuối năm 1954:
Sĩ quan Pháp : 11            HSQ Pháp :  24           Binh sĩ Pháp :  7
Sĩ quan VN    :  18            HSQ VN    :  117         Binh sĩ VN    :  447


Sơ lược hoạt động của TĐ3ND cho đến hết năm 1954

Ngày 20-11-1953, hành quân Castor mở màn: quân ND Liên Hiệp Pháp nhảy xuống Điện Biên Phủ (trong đó có TĐ5ND) để thành lập một căn cứ vững chắc với mục đích bảo vệ Vương quốc Lào và mong "thử lửa" với quân đội Việt Minh, trong một trận đại chiến tiêu hao. Cho đến ngày tổng tấn công ĐBP ngày 13-3-1954, tức thời gian hơn 3 tháng, chỉ có những cuộc giao tranh xung quanh cứ điểm, trong khi quân Pháp Việt kiện toàn phòng thủ căn cứ và phe Cộng sản điều quân đến công hãm nơi này.

Cũng trong thời gian đó, tướng Giáp áp dụng chiến thuật "dương Đông, kích Tây," cho 3 sư đoàn (325 vừa thành lập, 304 và 308) sang Trung và Bắc Lào để uy hiếp Seno và Luang Prabang. Ngày 21-12-1953, trung đoàn 101/SĐ325 vượt dẫy Trường Sơn tại Ban Buc và tiến đến quốc lộ 12, ngày 28 trung đoàn 66/SĐ304 tiến đến Tchepone. Quốc lộ 9 nối Trung Lào với Trung Việt có thể bị cắt đứt, Seno náo loạn và địch chiếm tỉnh Thakhek không tốn một viên đạn.

Tình hình khẩn trương: tướng Navarre ra lệnh thành lập Chiến đoàn bảo vệ Trung Lào (Groupement opérationnel du Moyen Laos) dưới quyền chỉ huy của tướng Franchi, gồm hai Liên đoàn bộ binh số 2 và số 51 (GM2 và GM51) cùng những đơn vị ND được không vận tới (TĐ3ND, TĐ1ND Viễn Chinh, TĐ6ND Viễn Chinh (đại úy Bigeard), TĐ2ND Lê Dương, TĐ2/TrungĐoàn1ND Viễn Chinh).

TĐ3ND đang đóng ở trường Bưởi Hà Nội, được điều động bằng xe lửa đi Hải Phòng ngày 23-12-1953. Ngày 24, nhận được lệnh không vận đi Seno (Lào) từ phi trường Cát Bi. Ngày 25 và 26, toàn thể Tiểu đoàn có mặt ở sân bay Seno. Quân số: 746. Nhiệm vụ: bảo vệ phi trường Seno và các vùng lân cận, phục kích và giao tranh lẻ tẻ: bắt được 13 tù binh, 12 tình nghi cùng ít vũ khí. Một số quân nhân Pháp-Việt được gắn Anh Dũng bội tinh.

Ngày 7-1-1954, TĐ3ND được lệnh tiến lên vùng Ban Hine Siu (BHS), và chiếm lại đồn Ban Hine Siu vào lúc 15:30 cùng ngày.

Ngày 8-1-1954, ĐĐ3 thám sát  phiá Tây BHS đụng địch lúc 10:00 và phải nhờ Không Quân oanh kích, chiều và tối cùng ngày ĐĐ1 và ĐĐ2 cũng đụng nhẹ, chứng tỏ địch quân có mặt trong vùng.

Ngày 9-1-1954, lúc 05:10 địch tấn công mạnh BHS, trong và ngoài vị trí phòng thủ. ĐĐ4 phản công lúc 06:30, nhưng đến 07 :30 ta mới tạm chiếm lại và cầm cự trong căn cứ BHS. Lúc 09 :00 phi cơ mới oanh kích xung quanh BHS, và đến 09 :30, trạn phản côn cuối cùng của TĐ3ND đẩy lui được địch và ta mới hoàn toàn làm chủ căn cứ BHS. Đến 15 :00 trực thăng đến di tản thương binh, và 17 :30 tiểu đoàn được lệnh rút đường bộ về Ban Na Uong. Lúc 22 :00, về tới Ban Na Uong bắt tay với TĐ6ND Viễn Chinh của đại úy Bigeard.

Tổn thất ta:     Tử thương 3 Pháp, 48 Viêt Nam (trong số có Trung uý Phạm Công Quân)
Bị thương  5 Pháp, 79 Việt Nam (trong số có trung úy Phan Trọng Chinh)
Mất tích       8 Pháp, 93 Việt Nam
Tổn thất địch:   Chết để lại tại chỗ  200, không kể số thương vong do phi cơ oanh kích.
Vũ khí ta thu được, đủ để trang bị 1 đại đội.

Quân số Tiểu đoàn : 688 trước trận đánh, còn lại 459 sáng chủ nhật 10-1-1954

Ngày 17-1-1954 trong 1 buổi duyệt binh tại Seno, quân kỳ của TĐ3ND được gắn Anh dũng Bội Tinh với Nhành dương liễu, Thiếu úy An/ĐĐ3 được vinh thăng Trung úy trước hàng quân. Các huy chương: 221 ADBT, 10 QCBT, 2 BQHC (Trung úy Nguyễn thành Chuẩn và thiếu úy Đào Văn Hùng), Thiếu tá Mollo và 1 sĩ quan Pháp được gắn Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion d’Honneur).

Ngày 1-2-1954, TĐ3ND được bổ sung quân số bằng 1 đại đội của TĐ7ND được thuyên chuyển qua, để thay thế ĐĐ3 bị giải tán sau trận Ban Hine Siu.

TĐ3ND còn hoạt động bên Lào cùng các đơn vị bạn cho đến đấu tháng 4/1954. Ngày 6/4/1954 đơn vị bắt đầu được không vận về Việt Nam, ngày 11/4/1954 toàn thể Tiểu đoàn có mặt tại căn cứ Protectorat cạnh Hồ Tây (trường Bưởi cũ).

Từ ngày về cho đến đầu tháng 6/1954, Tiểu đoàn đảm nhiệm an ninh 2 phi trường Bạch Mai và Cát Bi, cũng như tham dự những hành quân tảo thanh trong vùng

Ngày 10-6-1954, Tiểu đoàn được không vận vào Đà Nẵng.

NGày 18-6-1954, Tiểu đoàn di chuyển đến Pleiku.

Ngày 21-6-1954 tham dự cuộc hành quân Eglantine, mở đường từ Pleiku đến An Khê.

Ngày 6 đến 9-7-1954, Tiểu đoàn được không vận trở về Hà Nội.

Ngày 20-7-1954, Tiểu đoàn lại được không vận vào Nha Trang và đóng trong vùng này cho đến hết năm 1954.

Không rõ ngày tháng nào trong năm 1955, Thiếu tá Mollo trao lại quyền chỉ huy Tiểu đoàn cho đại úy Phan trọng Chinh.

Hoàng Cơ Lân sưu tầm
Tháng 12/2010

Saturday, June 7, 2014

Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường và Nha Kỹ Thuật / Bài Viết của Trung Tá Phan Trọng Sinh



Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường và Nha Kỹ Thuật



Trước đây khoảng hơn một năm, khi anh Nguyễn Mạnh Tường -Đại tá NM Tường-  từ San Diego tới trú ở Moss Beach,CA-  tôi có đến thăm anh vài lần. Nhắc lại hồi 2005 tôi đến đón anh ở San Diego đi dự buổi họp của chiến hữu NKT ở Orange County, anh Tường có nói chừng nào có tổ chức họp mặt ở San Jose, chúng mình sẽ tới gặp lại anh em cũ. Năm nay 2011 có Tiểu Hội NKT ở San Jose nhưng anh Tường lại không thể đến!

Tôi xin được kể đôi chút về Nguyễn Mạnh Tường. Đã có những bài báo nói về Mãnh sư Nguyễn Mạnh Tường thời gian anh phục vụ tại Phú Yên, nhưng chưa có ai biết anh đã làm những gì cho SLL nói riêng và cho NKT nói chung. Tôi xin được bổ túc phần nào về thời gian Tường ở SLL và NKT.

......

Sau Cách Mạng 1963, Đại Tá Hồ Tiêu về làm CHT Sở Liên Lạc, lúc đầu Đại Tá mang về SLL một số sĩ quan nhảy dù trong đó có tôi, các Đại úy Nguyễn Viết Cần, Nguyễn Thế Phồn, Nguyễn Văn Thanh, các Trung úy Trần Lưu Huân, Trần Thụy Ly, các Thiếu úy Văn Thạch Bích, Lê Minh, Nguyễn Văn Thụ, Nguyễn Hải Triều, Vương Vĩnh Phát, Phan Nhật Văn, Nguyễn Văn Am...vv...Từ các đơn vị không phải nhảy dù có Trung Tá Ngô Văn Hùng CHP, Đại úy Hào, Đại úy Trung, Trung úy Lê Quang Tiềm, Thiếu úy Nguyễn Cẩm, Thiếu úy Bùi Minh...vv.  

Khởi đầu Đại Tá Hồ Tiêu đã chịu nhiều áp lực để tiếp tục công tác mật vụ của Sở Nam. Đại Tá HT có Trung Tá Ngô Văn Hùng làm CHP lo việc cải tổ để có thể tiếp nối sứ mệnh của Sở Nam. Ngoài Trung Tá Hùng còn có các Sĩ quan từng quen việc Phòng Nhì và An Ninh như Đại úy Phồn, Đại Úy Hào, Đại Trung, Thiếu úy Triều, Thiếu úy Bùi Minh....

Tháng 1-1964 tôi mới về trình diện SLL và gặp Tường là TP3 của Sở, tôi làm Phụ Tá TP2 cho Nguyễn Viết Cần. Trong thời gian này, tôi được chỉ thị hợp tác với TP3 Nguyễn Mạnh Tường để hoàn tất kế hoạch hành quân Hạ Lào. Anh Cần rời SLL khoảng tháng 2 hay 3-1964 và tôi thay anh ấy ở chức vụ TP2.

Sau khi tôi nhận chức vụ TP2/SLL từ Đại úy Cần, một hôm mở kho lưu trữ những tài liệu của Sở Nam tập trung về BCH/SLL, tôi đã thấy những hồ sơ của các chính khách VN mà tên tuổi đã được nhắc tới trên báo chí như Nguyễn Tường Tam,  Trần Quốc Bửu, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Hương...vv.., gần như  hầu hết các chính khách tên tuổi vào thời ấy đều có một hồ sơ cá nhân rất chi tiết. Điều bất ngờ là có cả hồ sơ về Nguyễn Mạnh Tường và Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu! Tôi có kể chuyện này cho Tường. Chúng tôi trao đổi ý kiến và đều đồng ý không muốn SLL theo đường lối cũ của ĐT Lê Quang Tung.

Tôi trình sự việc lên ĐT HT và được chỉ thị lựa một số hồ sơ để Đại Tá coi. Một tuần sau, tôi được gọi lên văn phòng CHT, buổi họp có mặt Đại Tá CHT, CHP Ngô Văn Hùng và tôi. Trung Tá Hùng đựợc hỏi ý kiến trước về kho tài liệu của Sở Nam. Trung Tá Hùng rất phấn khởi cho rằng số tài liệu trên giúp ích rất nhiều trong việc cải tổ để tiếp tục trách nhiệm của Sở Nam. Được hỏi ý kiến, tôi trình rằng tôi chỉ được huấn luyện và có chút kinh nghiệm về Tình Báo Chiến Trường, tôi hoàn toàn không có kinh nghiệm gì về công tác Mật Vụ -nôm na là theo dõi, bắt bớ, thẩm vấn khai thác phạm nhân. Nếu quyết định của CHT theo đường hướng tái lập Sở Nam thì tôi xin được thay thế bằng ĐU Hào hay ĐU Trung là những người có nhiều kinh nghiệm hơn.

Buổi họp kết thúc không biết quyết định của ĐT HT ra sao. Nhưng chỉ vài ngày sau ĐT HT chỉ thị tôi tự tay thiêu hủy tất cả các hồ sơ đó và chú trọng phát triển kế hoạch hành quân thu thập tin tức vùng Hạ Lào.

Xin thú thật, khi đưa ý kiến chống lại ý kiến của CHP NV Hùng, ngoài lý do như đã nêu trên là không có kinh nghiệm tổ chức mật vụ, tôi cũng có ý riêng không thích công tác đó vì nó từng liên quan đến Nguyễn Mạnh Tường và anh ruột tôi là Phan Trọng Chinh. Gia đình tôi ai cũng qúy mến Nguyễn Mạnh Tường, Mẹ tôi còn qúy Tường hơn tôi, Cụ thường nói 2 thằng cùng tuổi, cùng lùn lùn giống nhau, thấy đứa nọ lại nhớ đứa kia.  
  

Vào thời gian này các cơ quan tình báo của VNCH và đồng minh đều xác nhận Đoàn 559 của CSBV bắt đầu hoạt động ở Hạ Lào. Nhu cầu tình báo đặt ra là phải thu thập tin tức về hoạt động của Đoàn này. LLĐB VN với các cố vấn Mỹ đã thực hiện một cuộc hành quân thả dù đêm nhiều toán Delta xuống vùng Tchépone, Hạ Lào. Tôi và Nguyễn Mạnh Tường ra Nha Trang để theo dõi và nghiên cứu cuộc hành quân. Cuộc hành quân hoàn toàn thất bại vì nhiều lý do. Toán không được thả đúng DZ, bị thương vong vì tai nạn, thất lạc không tập hợp được. Mười  phần chỉ có 1,2 phần tìm về được tới đồn biên phòng, đa số mất tích và bị bắt. Một biệt đội 3 chiếc trực thăng khả dụng nhưng chỉ ứng chiến, và dùng chuyên chở các sĩ quan từ Nha Trang tới các đồn biên phòng.

Trong phiếu trình CHT SLL do anh Tường thảo và rồi được trình lên Đại Tướng TTMT Cao Văn Viên, anh đề nghị dùng các đồn biên phòng làm căn cứ xuất phát, anh đề nghị dùng trực thăng xâm nhập và triệt thoái,  anh đề nghị KQVN thành lập và tăng phái 1 Biệt Đoàn Trực Thăng cho SLL, hình thức cũng giống như BĐ300 hay BĐ83 do Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy vào thời kỳ Combined Studies của CIA yểm trợ các cuộc hành quân ngoài Bắc. Anh Tường cũng đề nghị -vì nhu cầu tình báo cấp tốc do P2/SLL nêu ra, anh đề nghị tổ chức một đơn vị gồm nhiều toán biệt kích, phải xin chuyển ngay một số toán Bắc Bình đang ở Long Thành sang kế hoạch hành quân Hạ Lào...vv.

Xin nói thêm là lúc này SLL và Sở Kỹ Thuật -tiền thân của NKT- là 2 đơn vị riêng biệt. Trước tháng 11-1963 cả 2 Sở đều dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung. Sở LL, trước Cách Mạnh 1963 còn gọi Sở Nam hay nôm na là Mật Vụ, Sở Kỹ Thuật hay là Sở Bắc là hậu thân của 6è Bureau và 6è Bureau là tập hợp của các toán nhỏ Affairs Tonkinois của 2è Bureau. Khi người Pháp kiểm soát được một phần Thượng du Bắc Việt, các toán nhỏ Affair Tonkinois được giải tán và nhân viên gom lại thành 6è Bureau chuyên về các cuộc hành quân sau hậu tuyến địch. Sau 1954, 6è Bureau chuyển sang QĐQGVN và là Phòng 6/BộTTM, Trưởng Phòng là Đại Tá Lung. Qua vài lần cải tổ và đổi tên P6 trở thành Sở Kỹ Thuật/Bộ TTM, cơ quan yểm trợ chuyển từ Combined Studies của CIA sang cho MACSOG. MACSOG được thành lập để phụ trách các cuộc hành quân biệt kích Miền Bắc tiếp tục công tác của Combined Studies. CHT Sở Kỹ Thuật từ Đại Tá Lung, chuyển sang  Đại Tá Lê Quang Tung, rồi Đại Tá Trần Văn Hổ làm Giám Đốc khi SLL nhập vào SKT để thành một Nha, vị Giám Đốc sau cùng là Đại Tá Đoàn Văn Nu.

Nói tới danh xưng của NKT, thì có câu chuyện hiểu lầm tức cười là nhiều người nghĩ rằng Sở KT và sau này là Nha KT thuộc Phòng 7 BTTM. Phòng 7 BTTM được thành lập trong thời gian Việt Nam Hóa Chiến Tranh, chuyên về tác chiến điện tử, kiểm thính mọi hoạt động liên lạc vô tuyến của Địch và là 1 trong số nhiều nguồn cung cấp tin tức tình báo để dùng trong các kế hoạch đặc biệt của PTB/NKT. Một vài bài viết của ai đó tự nhận là nhân viên NKT cũng đã ngộ nhận như vậy !

Để được MACV ủng hộ đề nghị hành quân Hạ Lào, Tường và tôi đã phải họp nhiều lần với Đại Tá Koszebew, sĩ quan liên lạc của MACV có văn phòng ngay trong BCH/SLL. Đại Tá Koszebew gần như hoàn tòan đồng ý với chúng tôi về kế hoạch hành quân. Nhờ ông mà chúng tôi được giới thiệu với một số cơ quan TB Hoa Kỳ, và có những buổi họp với MACV rồi MACSOG, trình bày đề nghị của SLL về nhu cầu thả biệt kích dọc Trường Sơn, chúng tôi đã gặp một số ý kiến chống đối của MACSOG vốn chỉ thiên về hành quân thả dù và Biệt Hải và có thành kiến về khả năng của KQVN có thể cung cấp hữu hiệu cho những cuộc hành quân xâm nhập và triệt thoái bằng trực thăng H34. Trong các buổi họp đó, Nguyễn Mạnh Tường đã tỏ ra xuất chúng khi đối phương vừa nêu ra một trở ngại, là anh đã có sẵn một giải pháp soạn ra đúng thủ tục tham mưu. Xin nói thêm là anh Tường đã tham dự nhiều khóa huấn luyện của QLVNCH và Hoa Kỳ. Khóa nào anh cũng là Thủ Khoa với số điểm cách xa người thứ nhì, dù có học chung với sĩ quan Mỹ.

Kết quả là MACSOG hài lòng với kế hoạch của Tường, SLL có ngay 10 toán biệt kích chuyển từ các toán Bắc Bình ở Long Thành, có ngay 6 trực thăng H34 khả dụng do KQVN với số phi hành đoàn cần thiết mà chính anh Tường kín đáo lặng lẽ sưu tra lý lịch, thành tích trong số người do KQVN đề nghị...và đó là bước đầu của việc thành lập và tăng phái PĐ219, PĐ114 cho NKT sau này.

Kế hoạch của anh Tường được MACSOG sửa đổi đôi chút, và họ thành lập OP35 để cùng SLL thực hiện các cuộc hành quân. Sở LL nay trở thành một đơn vị của Sở KT nay là NKT, đối nhiệm của MACSOG. (Trước khi thành lập OP35, MACSOG chỉ có OP31 đến OP34, các hoạt động tạm kể là Biệt Hải, Biệt Kích Bắc, và Tâm Lý Chiến).  

Nhưng một chuyện bất ngờ xảy ra, anh Tường được lệnh chuyển sang BTL/CSQG. Từ đó trách nhiệm cả P2 và P3/SLL do tôi kiêm nhiệm. Khi kế hoạch hành quân được Pentagon bật đèn xanh, tôi được lệnh ra Đà Nẵng thiết lập BCH/HQ Lôi Hổ bên cạnh tổ chức của đối nhiệm là C&C,Da Nang (Command & Control) trực thuộc OP35 ở Saigon. Vào lúc này danh từ Chiến Đoàn chưa được BTTM và MACV chấp thuận vì anh Tường dùng danh từ Task Force để dịch chữ Chiến Đoàn. Phía đối nhiệm nại cớ Task Force là danh từ chỉ một tập hợp đơn vị gồm nhiều binh chủng để thi hành một nhiệm vụ đặc biệt và tạm thời. Với tôi, tôi nói "I don't care" tên gọi là cái gì, tôi cần bảng cấp số được chấp thuận để tôi có phương tiện thi hành nhiệm vụ giao phó.

Trong gần 2 năm cái BCH do tôi thành lập ở Da Nang không có tên chính thức, chỉ gọi là Lôi Hổ, với Mỹ thì là C&C VN,Danang với code name là Kayak, đối nhiệm của tôi Trung Tá Raymond C.Call là Cherokee. Phải chờ cho đến khi BCS được chấp thuận mới được gọi là Chiến Đoàn. Lúc này doanh trại ở Non Nước cũng đã sẵn sàng đón các Toán ở Long Thành ra trú đóng thường trực. Bảng cấp số của PD219 cũng được chấp thuận và các trực thăng chuyển từ Nha Trang ra Da Nang.  

Trước khi danh xưng Chiến Đoàn được chấp thuận, khởi sự tôi có 6 toán với 6 phi hành đoàn do Trung úy sau là Đại úy Hồ Bảo Định chỉ huy, rồi tăng dần lên 25, 30 Toán với 25 trực thăng. Lúc đầu xuất phát xâm nhập từ hầu hết các căn cứ biên phòng từ Khe Sanh xuống tới Dak Pek, DakSut, Đức Cơ. Các Toán trú ở Long Thành, được C130 Black Bird đưa từ Long Thành ra Da Nang, hay Phú Bài, Kontum rồi chuyển sang trực thăng H34 đưa đến các FOB  để được thuyết trình HQ và sau đó lên đường xâm nhập. Từ cuối 1965 tới 1967, thời gian tôi chỉ huy Lôi Hổ ở Da Nang, báo chí không biết gì về các cuộc oanh tạc của B52 trên đường mòn HCM do Lôi Hổ yêu cầu. Và có lẽ đó là các hoạt động duy nhất của B52 trong chiến tranh VN vào thời gian 1965-1967.

Tôi xin kể chút kỷ niệm với các anh em của 6 phi hành đoàn trực thăng khi vừa từ Nha Trang ra trình diện tôi ở phi trường Da Nang. Trung úy Hồ Bảo Định, sau khi giới thiệu từng người của biệt đội, nói nhỏ với tôi một nhân viên vừa mới kết hôn thì được lệnh cấp tốc ra Da Nang, anh ta có mang theo tân nương trên trực thăng của Biệt Đội. Biệt đội xâm nhập ngay trong ngày, lẽ ra tôi theo trực thăng đi FOB Khâm Đức ngay, nhưng tôi ở lại Da Nang để thương thuyết nốt vụ thuê nhà cho phi hành đoàn. Tôi đã giúp đối nhiệm thuê được 3 villas ở Da Nang, 1 cái dành cho SQ, HSQ Mỹ, 1 cái dành cho tôi và Trung Tá Call và cũng là nơi vãng lai cho cấp Tá. Cái thứ 3 dành cho phi hành đoàn trực thăng, chật chội ngay cả với các anh em độc thân. Nghĩ tới người anh em vừa kết hôn, ngay trong ngày tôi kiếm thêm được một căn nhà có 6,7 phòng nhỏ vừa cho từng cặp vợ chồng. Một anh Đại úy Mỹ phải lo sửa chữa và cung cấp mọi tiện nghi căn nhà mới thuê ngay lập tức. Sau khi lo xong vụ nhà cửa tôi mới vào Khâm Đức bằng L19. Đến chiều khi các trực thăng ở Khâm Đức trở về Da Nang tất cả nh ân viên phi hành đoàn đều có một chỗ nghỉ tiện nghi. Riêng tân lang được gửi tặng thêm 1 phong bì.  

Trong mùa mưa 1966, các đồn biên phòng như Ashao, A Lưới, Tà Bạt lần lượt phải dẹp vì áp lực địch và vì không thể yểm trợ hữu hiệu trong mùa mưa. C&C Da Nang chỉ còn duy trì được 2 FOB là Khâm Đức và Kontum. Khi Bảng cấp số được chấp thuận, danh xưng Chiến Đoàn được chấp nhận, FOB Kontum vẫn còn thuộc Chiến Đoàn 1 ở Đa Nang, và do ĐU N.V Thanh chỉ huy, sau được ĐU Hồ Châu Tuấn thay thế, rồi Nguyễn Hương Rĩnh, tiếp theo là Văn Thạch Bích. Khi Lôi Hổ có đủ số Toán để thành lập 2 CĐ thì FOB Kontum thành BCH/CD2 tách ra khỏi CĐ1 ở Danang và tôi không còn phải phụ trách các cuộc hành quân trong khu vực 3 biên giới nữa. Tới đây các phần chính kế hoạch của anh Tường đã được thực hiện, tuy có khá nhiều thay đổi để đáp ứng với tình thế lúc đó, nhưng tựu trung các điểm chính đều đã được anh Tường đề nghị.  

Đầu năm 1967, tôi đang ở Da Nang rất bận rộn vừa lo hành quân, vừa lo doanh trại mới bên Sơn Trà để đón các Toán từ Long Thành ra, thì được chỉ thị bàn giao gấp cho Trung Tá Nguyễn Tuấn Minh để về trình diện CHT SLL.

Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây - Trước khi tôi về SLL vào năm 1964, -để thi hành một mật ước với hữu phái Lào- SLL đã gửi một phái đoàn do ĐU Hào, Trung Úy Rĩnh, Thiếu Úy Phát, Trung úy Tiềm, Thiếu úy Am sang Hạ Lào, và có cơ sở bên cạnh các Phân khu của QĐHGL như ở Savannakhet, Saravane, Attopeu và Pakse, các Toán báo cáo trực tiếp về P2/SLL. Theo kế hoạch của Tr.Tá Hùng CHP/SLL đề nghị thì sẽ phát triển sâu vào vùng địch và lên Thượng Lào.

Rời CĐ1, tôi về Saigon và nhận chỉ thị phải sang Lào chấn chỉnh lại Phái Đoàn của Sở ở đó mà trước đây là một bộ phận của P2/SLL lúc tôi là Trưởng Phòng. Nhân viên phái đoàn đã hủ hóa, người có vợ bé, người  gây xích mích với sĩ quan Lào, người bị nhóm buôn lậu mua chuộc, và nhất là không phát triển sâu vào vùng địch, mà chỉ báo cáo các hoạt động của Bạn là QDHG Lào cùng một vài cuộc thẩm vấn tù binh VC hay Pathet Lào bị QDHG Lào bắt được, và cũng không bành trướng lên phía Bắc khỏi Thakhek là địa điểm đối diện với Đèo Mụ Già cửa ngõ xâm nhập của Địch.

Tôi sang Lào thực hiện được kế hoạch của Trung Tá Hùng là có thêm được một Toán ở Luang Prabang, ở Vientian, ở Vang Vieng nơi đặt BCH của Tướng Vang Pao, và Thakhek. Nhưng rồi các Toán ở Thượng Lào này, kể cả ở Thakhek cũng phải rút trở xuống Hạ Lào vì các hoạt động của Sở trùng hợp với các Toán của Trung Tá Thoại thuộc TƯTB và của Trung Tá Dung của NKT. Khi soạn thảo kế hoạch, Trung Tá Hùng đã không được biết gì về các hoạt động của TƯTB và NKT ở Thượng Lào.

Sau hơn 2 năm ở Lào, hết nhiệm kỳ tôi trở về BCH/SLL thay thế cho Thiếu Tá Nguyễn Hữu Trang làm TMT Sở. Anh Trang sang Lào thế vào chỗ tôi. Tôi ở Saigon không lâu, rồi lên Ban Me Thuot làm CĐP/CĐ3 cho anh Thiếu Tá Tùy CĐT mới từ LLDB sang, nhưng lại đang chuẩn bị rời chức vụ này. Anh Tùy từ BB sang LLDB, bị vất vả vì phải đổi đi đồn biên phòng. Anh được về SLL nhưng lại phải lên cao nguyên và nắm chức vụ CĐT một CĐ mới lập mà thành phần Toán đa số là Mike Force người Miên và Nùng chuyển qua. Anh Tùy hoàn toàn xa lạ với phương thức Targetting đặc biệt của Lôi Hổ, anh không họp tham mưu hỗn hợp, anh không muốn đi cùng trực thăng với đối nhiệm trong các cuộc xâm nhập, anh tính chuyện bỏ SLL. Vì vậy mà tôi phải lên BMT vào lúc địch toan tính dứt điểm các đồn từ Ban Đong xuống tới Kiến Đức.

Ngày nào CĐ3 cũng có ít nhất 2, 3 toán hoạt động dưới đất. Hàng ngày trực thăng bay ra vào vùng hành quân như đi chợ. Số tôi chỉ huy mát tay, nên chỉ mất có 1 Toán Trưởng (CU Phan Nhật Văn) và 1 Toán Phó lúc còn ở Da Nang. Và phải nói là nhờ tài nghệ tuyệt diệu của các Pilot PĐ219, xâm nhập cũng như triệt thoái bất kể giờ giấc đều bay sát ngọn cây, khiến địch không trở tay để sử dụng SA7 và luôn đến đúng LZ thả cũng như đón Toán.

Lần theo Toán xâm nhập chót của tôi, khi trở về nghe trên máy có May Day của một trực thăng bạn trúng SA7 trên không phận Đức Lập. Về tới BCH/CĐ3 được biết đó là trực thăng của LLDB Mỹ, chở CHT Toán B của Mỹ và vị đối nhiệm phía VN  từ Nha Trang bay lên quan sát trận đánh đang tiếp diễn ở căn cứ LLDB Đức Lập. Vì bay cao nên đã lãnh SA7.

Thật hú vía, tôi đã bay trên trực thăng PĐ219, chứ nếu bay trên trực thăng Mỹ thì đâu còn có mặt ở đây. Các vị sĩ quan Việt Mỹ đó có ghé BMT và gặp đối nhiệm của tôi ở BCH/CĐ3. Ông Trung Tá đối nhiệm của tôi cũng mừng hú vía khi từ chối bay cùng các ông bạn từ Nha Trang lên. Thật ra thì công việc của chúng tôi ở CĐ3 lúc đó là làm sao không cho địch tập trung tung ra thêm đơn vị để dứt điểm Đức Lập và Ban Dong. Các Toán của CĐ3 đang cố gắng phát giác mọi di chuyển và tập trung của địch trên đất Miên, BCH/CĐ3 sẽ xin B52 đánh vào những khu vực tập trung quân của địch. Sau này đọc những hồi ký của các Tướng Lãnh địch mới biết là chiến dịch của chúng thất bại vì bị tổn thất nặng do B52. Đó là nhờ các thành quả của các toán CĐ3 và PĐ219 mà Đức Lập qua được trận công kích năm đó.  

Nhiều anh em biệt kích SLL, SCT còn sống sót tới nay có thể đã nhờ các Pilot 219 không ngại hiểm nguy, lăn vào vùng lửa đạn để mang các anh về. Chúng ta phải nhớ cái ơn vô cùng to lớn này.

Sau khi địch thất bại trong chiến dịch dứt điểm ở khu vực từ Ban Dong xuống đến Kiến Đức, tôi được lệnh về BCH/NKT thay thế cho Trung Tá Đỗ Văn Tiên ở chức vụ TP Tình Báo NKT. Anh Tiên bị MACSOG đề nghị thay thế vì gia đình có người dính líu đến VC. Thời gian tôi ở với CĐ3 như vậy chỉ có vài tháng và không ngày nào không có hành quân.

Lúc này Nguyễn Mạnh Tường đã rời CSQG và đang là TP Hành Quân NKT. Chúng tôi như đôi đũa lại có dịp cùng làm việc, ưu tiên thượng cấp giao cho anh Tường lúc này là tái tổ chức NKT, thành lập Sở Công Tác, với sự tách rời vài bộ phận của Sở Tâm Lý Chiến, anh phải viết lại BCS mới của Nha. Thay mặt cho NKT hay đúng hơn là thay mặt cho Trung Tá Nguyễn Minh Tiến CSV/Sở HQTB -Tường phải tham dự tất cả các buổi họp với TTM, với MACV, MACSOG.  Anh Tường bị áp lực từ tứ phía, từ nội bộ Nha phải tranh đấu với TTM và MACV được thêm quân số, cấp bậc tương ứng của các cấp từ Toán viên đến Giám Đốc Nha. Tuy tôi có tham dự một vài buổi họp như vậy cùng với Tường, nhưng rồi nhức đầu quá lấy lý do tôi đang có những cuộc hành quân tình báo đặc biệt, tôi để Tường  lãnh trọn.

Sau lễ Giáng Sinh 1970 Tường đưọc thuyên chuyển ra Phú Yên, cuộc đời anh lại một lần nữa sang trang. Lần này anh nổi tiếng đã giữ vững vùng trách nhiệm không để lọt vào tay địch, nhưng vì trách nhiệm với nước, với dân, với quân đội anh đã không thể trọn tình với gia đình. Cuộc đời anh cô độc từ đây cho đến ngày anh được các chiến hữu tiễn đưa lần chót.

Gần đây có vụ đột kích bắt Bin Laden, tôi xin kể lại một vụ đột kích khác của Mỹ trong đó nhiều nhân viên Mỹ của OP35 hay của C&C Da Nang tham gia.

Khoảng đầu năm 1967, có tin tức mơ hồ về 1 trại giam tù binh Mỹ gần Hanoi. Tôi cùng Đại tá Simons, boss của OP35 và Trung tá Call đối nhiệm của tôi đã cùng bay sang Nakhon Phanom và Udorn Thái Lan.  Nakhon Phanom là nơi người Mỹ thiết lập Trung Tâm Tác Chiến Điện Tử, còn căn cứ không quân Udorn là nơi có một số phi cơ không thám SR111 và SR71 chuyên bay thám thính chụp ảnh Bắc Việt. Sau chuyến bay này Đại tá Simons mang về một số t ài liệu không ảnh và dụng cụ điện tử. Trung tá Call nói riêng cho tôi biết có thể C&C Danang phải cung cấp vài toán cho một cuộc hành quân giải cứu tù binh.

Mãi tới 1970 tôi mới được biết rằng Pentagon đã không dùng toán VN mà dùng toàn biệt kích Mỹ, trong đó đa số là sĩ quan và HSQ của C&C Danang. Cuộc hành quân đột kích này chỉ huy bởi Đại Tá Simons đặt ở Monkey Montain hay còn gọi là Đài Radar Panama ở Sơn Trà. Dick Meadow -người chỉ huy toán biệt kích nhảy xuống trại giam là một HSQ lúc mới tới trình diện C&C Danang năm 1965. Vào lúc anh chỉ huy toán biệt kích nhảy xuống Sơn Tay anh mang cấp bậc Đại Úy. Cuối năm 1970, sau vụ đột kích, Đại tá Nu và tôi có gặp Dick Meadow ở Fort Benning. Trung tá Call đối nhiệm của tôi về hưu năm 1970 và qua đời ở Florida năm 1976. Đại tá Simons là một huyền thoại của LLDB Hoa Kỳ và là một anh Mỹ khó tính, độc đoán, lên cấp từ HSQ, lập được nhiều chiến công trong WW2.  Ông này và Đại tá Hồ Tiêu ít khi giao thiệp trực tiếp với nhau. Sau thất bại ở Sơn Tây, Đại Tá Simons còn tổ chức vụ đột kích thất bại khác vào Iran và đã làm Tổng thống Carter mất điểm trong vụ tái cử. Simons về hưu và hết là một huyền thoại của Quân Đội Mỹ.

Lắm lúc tôi tự hỏi, nếu Nguyễn Mạnh Tường thiết kế cuộc HQ Sơn Tây này, và được thực hiện sớm hơn 1,2 năm thì kết qủa sẽ ra sao. Tôi đã có ý nghĩ như vậy vì cuộc triệt thoái khỏi An Lộc của BĐQ do anh thiết kế và thực hiện là một cuộc HQ tuyệt vời đáng để học hỏi mãi mãi về sau. Lực lượng của ta ra khỏi An Lộc là một hoàn toàn  bất ngờ của địch. Chỉ có 2 khẩu 155 ly và đạn dược không thể mang ra được là phải phá hủy tại chỗ. 

Để chấm dứt câu chuyện tâm tình với anh em về một chiến hữu thân thương của chúng ta, tôi xin các anh em hãy nhớ lại Nguyễn Mạnh Tường, người đã khai sinh ra các cuộc hành quân vượt biên của Lôi Hổ mà tôi đã hân hạnh là người đầu tiên hướng dẫn anh em thực hiện kế hoạch của anh. Hy vọng câu chuyện cũng giúp các bạn biết thêm phần nào về huyền thoại NKT, SLL, Sở Công Tác và PĐ219. Chuyện của những anh hùng quân đội lặng lẽ góp phần vào cuộc chiến tranh trong bóng tối.

Phan Trọng Sinh
2011      

g

   Phạm Hòa và NT Phan Trọng Sinh